eMagazine
0%
Kitamaebune.
Từ thời Edo đến giữa thời Minh Trị, có một đội tàu đóng vai trò huyết mạch trong mạng lưới vận tải và phân phối hàng hóa của Nhật Bản. Vượt qua hành trình hiểm nguy nơi sự sống và cái chết “chỉ cách nhau một tấm ván thuyền”, Kitamaebune “chở” theo những giấc mơ về sự giàu sang, đổi đời và đại diện cho tinh thần phiêu lưu đậm màu sắc lãng mạn của người xưa.

Kitamaebune là gì?

Kitamaebune (北前船 - Bắc Tiền Thuyền) là những tàu buôn đi lại giữa Hokkaido và Osaka từ giữa thời Edo (1603-1868) cho đến đầu thế kỷ 20. Tàu đi theo lộ trình dọc bờ Biển Nhật Bản và quanh mũi phía nam của đảo Honshu, dừng lại để buôn bán tại các cảng trên đường đi. Nhiều loại hàng hóa được vận chuyển bằng Kitamaebune, từ lương thực thực phẩm, đặc sản địa phương và đồ thủ công cho đến các nguyên vật liệu như giấy và vỏ cây tuyết tùng.

Tranh vẽ tàu Kitamaebune. Một đội tàu cơ bản khi xưa thường gồm từ 12-13 thành viên.
Tranh vẽ tàu Kitamaebune. Một đội tàu cơ bản khi xưa thường gồm từ 12-13 thành viên. Ảnh: hokkaido-treasure.com

“Kitamae” là từ mà người dân ở Osaka và vùng biển Nội địa Seto dùng để gọi khu vực ven Biển Nhật Bản của đảo Honshu, vì vậy tàu thuyền đến từ Biển Nhật Bản được gọi là “Kitamaebune”. Còn ở vùng ven Biển Nhật Bản, các tàu này được gọi là “Sengoku-bune” (nghĩa là “tàu chở 1.000 koku gạo”, tương đương khoảng 150 tấn), hoặc “Bai-bune” (tàu gấp đôi) – ám chỉ tiềm năng tăng gấp đôi lợi nhuận chỉ trong một chuyến ra khơi.

Chiếc tàu lớn nhất trong lịch sử Kitamaebune có thể chở đến 2.400 koku. Với một cánh buồm lớn duy nhất, con tàu này có thể di chuyển ngay cả khi ngược gió như một chiếc du thuyền, cho thấy tính năng điều hướng bằng buồm xuất sắc.

Hình ảnh con tàu Kitamaebune một buồm.
Hình ảnh con tàu Kitamaebune một buồm. Ảnh: kitamae-project.com

Vào thời bấy giờ, hệ thống phân phối chưa phát triển nên giá cả hàng hóa sẽ thay đổi tùy theo khu vực. Lợi dụng điểm này, các tàu Kitamaebune sẽ “mua thấp, bán cao”: tại các cảng mà tàu ghé qua, họ sẽ thu mua các mặt hàng có giá rẻ và bán các mặt hàng nào được giá đang có trên tàu.

Chẳng hạn, cá trích đánh bắt ở Hokkaido (phía bắc) sẽ bán được với giá cao ở miền tây, nơi người nông dân sử dụng để làm phân bón trồng bông. Mặt khác, do sự khác biệt về kỹ thuật sản xuất quần áo giữa miền tây và miền bắc Nhật Bản, cũng như việc cây bông không trồng được ở xứ lạnh, quần áo cũ từ phía tây lại trở thành một mặt hàng có giá trị ở phía bắc.

Sau khi bán cá trích ở phía tây, họ sẽ chất đầy quần áo cũ lên những con tàu rỗng để chở lên miền bắc. Cách kinh doanh này của Kitamaebune được gọi là "buôn bán cưa xẻ" vì họ bán cả trên đường đi lẫn đường về, giống như hình ảnh cây cưa khi đẩy hay kéo thì cũng đều cắt vào gỗ.

Một chiếc áo khoác chắp vá theo phong cách Boro, có nguồn gốc từ tỉnh Aomori, phía Bắc. Người dân ở đây thường mua quần áo bằng vải bông cũ để may trang phục bởi vải bông vào thời đó rất quý.
Một chiếc áo khoác chắp vá theo phong cách Boro, có nguồn gốc từ tỉnh Aomori, phía Bắc. Người dân ở đây thường mua quần áo bằng vải bông cũ để may trang phục bởi vải bông vào thời đó rất quý. Ảnh: Bảo tàng AMUSE
Tuyến đường của Kitamaebune.
Tuyến đường của Kitamaebune. Ảnh: Yoshiko Iwamoto Wada

Khác với tàu thông thường, Kitamaebune không kiếm tiền bằng cách vận chuyển hàng hóa của người khác, mà chủ tàu đóng vai trò là chủ hàng và trực tiếp mua bán hàng hóa tại mỗi cảng trong suốt chuyến đi.

Phân loại hàng hóa trên tàu

Mặt cắt ngang của con tàu Kitamae chở hàng từ Hokuriku đến Matsumae.
Mặt cắt ngang của con tàu Kitamae chở hàng từ Hokuriku đến Matsumae. Ảnh: nippon.zaidan.info
Phân loại hàng hóa trên tàu.

Biểu tượng cho giấc mơ làm giàu thời Edo

Những Kitamaebune đầu tiên là những chiếc thuyền nhỏ, một cánh buồm và chỉ có thể thực hiện một chuyến đi khứ hồi mỗi năm. Đến khoảng những năm 1870, tàu có tới bốn cánh buồm, có thể vận chuyển hàng trăm tấn hàng hóa và thực hiện ba hoặc bốn chuyến mỗi năm.

Vào giữa những năm 1800, các chủ tàu Kitamaebune nằm trong số những thương gia giàu có nhất Nhật Bản. Các mặt hàng đặc biệt sinh lời từ Hokkaido có cá trích, được sử dụng để làm dầu, phân bón; và tảo bẹ kombu, dùng để nấu nước dùng dashi.

Chỉ với một chuyến khứ hồi giữa Osaka và Hokkaido, chủ tàu có thể thu về lợi nhuận lên tới 1.000 ryo (tương đương 60 đến 100 triệu yên hiện nay). Tuy nhiên, lợi nhuận cao đi kèm với rủi ro lớn. Các tai nạn hàng hải thường xuyên xảy ra trên vùng biển đầy hiểm nguy, đe dọa tính mạng của thủy thủ đoàn, như câu thành ngữ của người đi biển thời xưa: “板子一枚下は地獄 – Itago ichimai shita wa jigoku” (Địa ngục nằm ngay dưới tấm ván thuyền).

Dẫu vậy, đây là thời kỳ mà giấc mơ làm giàu có thể trở thành hiện thực ngay cả với người dân thường, miễn là họ có lòng dũng cảm, trí thông minh và tinh thần phiêu lưu. Mặc dù lương nhận về không cao, thuyền trưởng trên tàu Kitamaebune được phép chất lên tàu khoảng 10% tổng hàng hóa của chủ tàu bằng hàng hóa của chính mình. Với số tiền dành dụm qua các chuyến đi, nhiều người đã có thể mua được tàu riêng và vươn lên làm chủ.

Kitamaebune.
Ảnh: kitamae-project.com

Có thời cơn sốt Kitamaebune chẳng khác nào cơn sốt đào vàng trên biển Nhật Bản. Những con tàu này là một kỳ quan của thời đại, là hiện thân cho ước mơ, quyết tâm làm giàu và lòng dũng cảm của con người thời Edo.

Một năm trên tàu Kitamaebune(Trường hợp 1 chuyến/năm)

Một năm trên tàu Kitamaebune.

Các thủy thủ tàu Kitamaebune đến từ vùng Hokuriku và những nơi khác sẽ đi bộ từ Osaka về quê để đón năm mới, sau đó lại đi bộ trở về Osaka vào đầu mùa xuân.

Di sản của thời kỳ Kitamaebune

Kitamaebune bắt đầu suy thoái rồi biến mất vào khoảng đầu thế kỷ 20. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến sau thời kỳ Duy tân Minh Trị (kéo theo việc xóa bỏ các lãnh địa phong kiến và thành lập các tỉnh), cùng với sự ra đời của điện báo và bưu chính, đã làm giảm đáng kể chênh lệch giá hàng hóa giữa các vùng. Đồng thời, sự phát triển của hệ thống vận tải đường sắt cũng cạnh tranh gay gắt với vận tải đường thủy.

Tuy nhiên di sản mà Kitamaebune để lại cho nước Nhật lại cực kỳ sâu rộng, cả trong lĩnh vực kinh tế lẫn văn hóa, xã hội.

Ngọn hải đăng lục giác ở Cảng Sakata được xây dựng vào năm 1813 để dẫn đường cho Kitamaebune, cũng là nơi thủy thủ cầu nguyện ra khơi an toàn. Ngày nay thuộc Công viên Hiyoriyama, thành phố Sakata, tỉnh Yamagata.
Ngọn hải đăng lục giác ở Cảng Sakata được xây dựng vào năm 1813 để dẫn đường cho Kitamaebune, cũng là nơi thủy thủ cầu nguyện ra khơi an toàn. Ngày nay thuộc Công viên Hiyoriyama, thành phố Sakata, tỉnh Yamagata. Ảnh: tohokukanko.jp
Mô hình tàu Kitamaebune, cũng nằm trong khuôn viên Công viên Hiyoriyama.
Mô hình tàu Kitamaebune, cũng nằm trong khuôn viên Công viên Hiyoriyama. Ảnh: tohokukanko.jp

Không chỉ các cảng lớn mà ngay cả những cảng nhỏ hay làng ven biển ít dân cư cũng trở nên thịnh vượng nhờ vào Kitamaebune. Ngày nay, ở nhiều nơi vẫn còn lưu giữ các nhà kho, dinh thự và cửa hàng của một thời quá vãng.

Những ngôi nhà hẹp ngang, nằm san sát dọc các con hẻm nhỏ hướng thẳng ra biển là một kiểu quy hoạch đặc trưng của thời kỳ này. Các “phố hoa” hanamachi (khu giải trí), những ngọn đồi nhỏ để quan sát thời tiết, đền chùa để cầu nguyện an toàn..., tất cả đều là công trình được dựng lên để phục vụ thủy thủ và tàu buôn.

Quang cảnh thị trấn Izumozaki, nơi từng là cảng dừng chân của Kitamaebune và điểm bốc dỡ vàng bạc từ đảo Sado. Đây từng là thị trấn đông dân nhất ở Echigo, một trọng điểm về kinh tế, văn hóa và giao thông.
Quang cảnh thị trấn Izumozaki, nơi từng là cảng dừng chân của Kitamaebune và điểm bốc dỡ vàng bạc từ đảo Sado. Đây từng là thị trấn đông dân nhất ở Echigo, một trọng điểm về kinh tế, văn hóa và giao thông. Ảnh: miyoya.jp

Bên cạnh đó, Kitamaebune còn “chở” theo nhiều yếu tố thuộc về văn hóa, phong tục như ẩm thực, nghệ thuật đến những miền đất khác nhau, góp phần vào sự phát triển rực rỡ của văn hóa xứ Phù Tang. Theo những chuyến tàu Kitamaebune, văn hóa Kansai và Kyoto đã đặt chân đến những vùng đất nằm sâu trong đất liền của Tohoku. Chẳng hạn, búp bê Hina từ Kyoto đến cảng Sakata bằng tàu Kitamaebune, sau đó xuôi theo sông Mogami đến tận thành phố Yamagata xa xôi.

Búp bê Hina.
Búp bê Hina. Ảnh: kashiwaya.org

Vì tàu thường phải chờ thời tiết thuận lợi để ra khơi nên trong thời gian chờ đợi, tại các quán trọ hay trà thất, những cuộc gặp gỡ giữa thủy thủ đoàn với người dân địa phương đã trở thành nơi lan truyền các bài dân ca và nghệ thuật biểu diễn. Ví như bài dân ca Tsugaru-aiya-bushi của tỉnh Aomori được cho là bắt nguồn từ bài Sado Okesa của tỉnh Niigata, vốn dựa trên một giai điệu từ Kyushu có tên là Haiya-bushi.

Một ví dụ về ẩm thực là sự du nhập kombu (tảo bẹ khô) từ Hokkaido vào miền tây Nhật Bản, từ đó phát triển nên nước dùng dashi từ tảo bẹ – nền tảng của ẩm thực truyền thống washoku. Không chỉ vận chuyển hàng hóa đến các vùng miền để phục vụ đời sống người dân, Kitamaebune tồn tại như một cầu nối lan tỏa văn hóa trên khắp đất nước Nhật Bản.