eMagazine
0%
Địa hình nhiều núi lửa và cấu trúc địa chất phức tạp đã ban tặng cho Nhật Bản nguồn khoáng vật phong phú, trong đó có nhiều loại đá quý giá trị - là tiền đề để ngành công nghiệp trang sức Nhật Bản phát triển và nổi tiếng trên toàn cầu.

Sơ lược về lịch sử đá quý ở Nhật Bản Sơ lược về lịch sử đá quý ở Nhật Bản

Từ thời kỳ Jomon (14.000 - 300 TCN), ngọc bích đã là một loại đá quý đặc biệt quan trọng. Người Jomon ưa chuộng vẻ đẹp và độ cứng của ngọc bích, coi nó như biểu tượng của quyền lực.

Trong thời Yayoi (300 TCN - 300 SCN), cùng với sự phát triển của văn hóa nông nghiệp, kim loại quý và đá quý bắt đầu được sử dụng làm biểu tượng cho địa vị xã hội. Ngọc bích vẫn được đánh giá cao trong thời kỳ này, đặc biệt là magatama – viên ngọc có hình dấu phẩy, được xem như biểu tượng của quyền lực.

Magatama có niên đại từ thời kỳ Jomon đến thế kỷ thứ 8.
Magatama có niên đại từ thời kỳ Jomon đến thế kỷ thứ 8. Ảnh: Wikipedia

Từ thời Asuka (592 - 710) đến thời Nara (710 - 794), giao thương với Trung Quốc và Bán đảo Triều Tiên phát triển mạnh mẽ, do đó nhiều loại đá quý và kỹ thuật chế tác khác nhau đã được du nhập vào Nhật Bản. Trong thời kỳ này, hổ phách và san hô cũng bắt đầu được sử dụng, đặc biệt là trong các nghi lễ Phật giáo và trang trí tượng Phật.

Đến thời kỳ Heian (794 - 1185), việc sử dụng đồ trang sức từ đá quý phổ biến với phụ nữ quý tộc. Đồ trang sức cũng được dâng tặng cho Hoàng gia, đền thờ, chùa chiền, và được coi là vật linh thiêng.

Bảo vật quốc gia "Hạt đá mã não trang trí bàn thờ chùa Kofuku-ji".
Bảo vật quốc gia "Hạt đá mã não trang trí bàn thờ chùa Kofuku-ji". Ảnh: ColBase

Trong thời kỳ Edo (1603 - 1868), khai thác mỏ phát triển mạnh tại Nhật Bản, nhiều loại đá quý đã được khai thác cùng với vàng và bạc. Thạch anh từ tỉnh Yamanashi đã thu hút sự chú ý đặc biệt và bắt đầu được sử dụng trong các tác phẩm điêu khắc và đồ trang trí.

Trong thời kỳ Minh Trị (1868 - 1912), giao thương với nước ngoài trở nên sôi động, và văn hóa trang sức được du nhập vào Nhật Bản. Kỹ thuật nuôi cấy ngọc trai được phát triển với quy mô lớn bắt đầu ở Ise-Shima, tỉnh Mie. Điều này đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp ngọc trai Nhật Bản.

Các nữ thợ lặn lao xuống biển để thu hoạch ngọc trai ở thành phố Toba, tỉnh Mie.
Các nữ thợ lặn lao xuống biển để thu hoạch ngọc trai ở thành phố Toba, tỉnh Mie. Ảnh: toba.or.jp

Với lịch sử phát triển lâu đời, ngày nay, ngành công nghiệp trang sức Nhật Bản gây dựng danh tiếng với công nghệ và chất lượng tiên tiến, được đánh giá cao trên toàn thế giới.

6 loại đá quý phổ biến ở Nhật Bản 6 loại đá quý phổ biến ở Nhật Bản

Ngọc bích (翡翠 - Hisui)

Đây là loại đá tự nhiên được chỉ định là “quốc thạch” (国石 – kokuseki) của Nhật Bản. Ở xứ anh đào, nơi khai thác ngọc bích lớn nhất là thành phố Itoigawa thuộc tỉnh Niigata.

Ngọc bích được sử dụng làm đồ trang trí từ thời Jomon, thường được biết đến có màu xanh lá cây nhưng trong thực tế nó còn mang những màu sắc khác như trắng, tím, xanh lam và đen.

Ngọc bích.
Ảnh: lia-fail.com

Ngọc trai (真珠 - Shinju)

Nhật Bản là một trong những vùng sản xuất ngọc trai hàng đầu thế giới. Sau khi ông Kokichi Mikimoto thành công nuôi cấy ngọc trai vào năm 1893, ngành sản xuất ngọc trai bắt đầu phát triển.

Nhìn chung tại Nhật, ngọc trai biển chủ yếu được sản xuất ở đại dương và ngọc trai nước ngọt chủ yếu được sản xuất ở sông hồ. Đặc biệt, ngọc trai Akoya được nuôi cấy tại Ehime, Nagasaki, Mie và Kumamoto vang danh toàn cầu với vẻ đẹp cùng kích thước lớn và giá trị thương mại rất cao.

Ngọc trai.
Ảnh: j-yamaguchi.net

Hổ phách (琥珀 - Kohaku)

Hổ phách là một loại đá quý có nguồn gốc từ nhựa cây hóa thạch trong lòng đất qua nhiều triệu năm.

Ở Nhật, hổ phách đã được sử dụng làm đồ trang trí, hương liệu, sơn và thuốc từ lâu đời. Vùng Kuji, tỉnh Iwate là nơi khai thác, sản xuất hổ phách nổi tiếng nhất với những sản phẩm đa dạng về mẫu mã, màu sắc.

Hổ phách.
Ảnh: kuji.co.jp

Thạch anh (石英 - Sekiei)

Thạch anh có nhiều dạng, từ tinh thể trong suốt đến đục, mang màu sắc khác nhau. Tại Nhật, thạch anh được sử dụng rộng rãi làm đồ trang trí và đồ thủ công.

Tỉnh Yamanashi từ lâu đã nổi danh là vùng khai thác thạch anh chất lượng cao. Thành phố Kofu của tỉnh được biết đến như một thành phố đá quý, với nhiều xưởng chạm khắc và đánh bóng cùng các nhà sản xuất đồ trang sức.

Thạch anh.
Ảnh: lia-fail.com

Mã não (瑪瑙 - Menou)

Mã não là một biến thể dạng vi kết tinh của thạch anh, chủ yếu là canxedon, đặc trưng bởi các hạt mịn và màu sáng. Trong đó những loại đá canxedon có màu sẫm, mờ đục gọi là jasper, còn loại canxedon kết tủa thành từng lớp tạo nên họa tiết vân hoặc sọc gọi là agate.

Ở Nhật Bản, mã não đã được sử dụng làm đồ trang trí và thủ công mỹ nghệ từ thời cổ đại, cũng là một vật trang trí trong các nghi lễ Phật giáo và Thần đạo. Ngày nay mã não vẫn được sử dụng làm tràng hạt và bùa hộ mệnh.

Đá mã não được tìm thấy ở nhiều vùng trên khắp Nhật Bản, với những khu vực nổi tiếng bao gồm Hokkaido, Niigata, Yamagata và Shimane.

Mã não.
Ảnh: fashiontechnews.zozo.com, sapporo-housekisyuuri.com

San hô (珊瑚 - Sango)

Đá san hô có giá trị cao, các loại san hô đỏ, hồng và trắng đã được khai thác và sử dụng làm trang sức từ đầu thế kỷ 19. 

Những đồ vật quý giá nổi tiếng được trang trí bằng đá san hô là vương miện của Thiên hoàng Shomu và Hoàng hậu Komyo tại Lễ khánh thành tượng Đại Phật của Chùa Todaiji vào năm 752. Hiện nay, chúng được lưu giữ tại Chùa Shosoin ở Nara.

Ngày nay hoạt động nuôi trồng san hô quy mô lớn đang tiến hành tại tỉnh Kochi, với các phương pháp khai thác san hô bền vững được thúc đẩy. Các nghệ nhân Kochi sử dụng san hô để chế tác thành đồ trang sức, phụ kiện kimono tinh xảo, được cả thế giới ngưỡng mộ.

San hô.
Ảnh: jewel-cocco.com

Nghề gia công đá quý ở Nhật Bản Nghề gia công đá quý ở Nhật Bản

Từ xa xưa, người Nhật đã chế tác ra những vật phẩm trang trí, đồ trang sức nổi tiếng như magatama (ngọc hình dấu phẩy), kudatama (hạt cườm hình ống) và kanzashi (trâm cài tóc).

Đá tự nhiên kết hợp với kỹ thuật chạm khắc, đánh bóng của những nghệ nhân đã tạo nên các báu vật vẫn được lưu truyền và bảo tồn cho đến nay.

Hiện tại, tính đến năm 2025, có hai loại hình chế tác đá quý tự nhiên được Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp công nhận là nghề thủ công truyền thống, đó là: chạm khắc pha lê và đá quý Koshu; gia công đá mã não Wakasa.

Chạm khắc pha lê và đá quý Koshu

Đây là một nghề thủ công truyền thống của tỉnh Yamanashi, bắt nguồn từ khoảng 1100 năm trước, khi thạch anh thô được phát hiện ở hẻm núi Mitake Shosenkyo. Hiện nay vật liệu dùng trong nghề chạm khắc này bao gồm pha lê, mã não, ngọc bích, mắt hổ…

Người thợ thủ công chạm khắc và đánh bóng đá thô bằng tay, tạo ra nhiều mẫu mã đa dạng, bao gồm các loài động vật và các nhân vật đáng yêu được trẻ em yêu thích. 

Trong đó, “yukan” (遊環) – kỹ thuật chạm khắc tạo hình dạng xích từ một khối đá duy nhất được xem là đại diện tiêu biểu của nghề chạm khắc pha lê và đá quý Koshu (Koshu Suisho Kiseki Zaiku - 甲州水晶貴石細工).

Chạm khắc pha lê và đá quý Koshu.
Ảnh: forumkaya.co.jp

Chế tác mã não Wakasa

Vùng Obama, tỉnh Fukui nổi tiếng với những sản phẩm đá mã não tỏa ra ánh sáng rực rỡ đầy màu sắc và huyền bí như ngọn lửa, được gọi chung là “Wakasa Menou Zaiku - 若狭めのう細工”.

Bí quyết tạo nên màu sắc này nằm ở công đoạn nung “yaki-ire” (焼き入れ) – kỹ thuật nung đá mã não khiến đá chuyển thành màu đỏ nâu ấm áp và sâu thẳm đặc trưng. Vào giai đoạn Kyoho (1716-1735), một người tên Takayama Kichibee đã học được kỹ thuật này và mang về quê nhà Wakasa, khởi đầu cho nghề chế tác mã não tại đây.

Chế tác mã não Wakasa.
Ảnh: fun-japan

Vào đầu thời Minh Trị, nghệ nhân Nakagawa Heisuke thử nghiệm thành công việc chạm khắc các loài vật như cá chép, gà trống trên mã não, mở ra một hướng đi mới cho nghề thủ công này.