eMagazine
0%

“Matagi đi vào vùng núi vào mùa đông. Họ đi bộ nhiều ngày trong tuyết trắng. Khi bắt được một con gấu, họ ăn thịt nó, đem da cùng mật đến ngôi làng lân cận để đổi lấy ngũ cốc rồi lại quay về túp lều trên núi. Người ta nói rằng, đôi khi Matagi đi dọc theo các sống núi đến tận Joshu và Shinshu”.

Đó là những gì học giả, nhà nghiên cứu văn học dân gian Kunio Yanagita (1875-1962) viết về hành trình của Matagi đến tỉnh Akita trong tác phẩm “Yama no jinsei” (tạm dịch: Cuộc sống trong những ngọn núi). Matagi là những người sống trong núi sâu, săn gấu và các loài động vật khác từ thời xa xưa. Công việc này có vẻ giống với một thợ săn thông thường, nhưng cách Matagi săn bắn lại có những khác biệt quan trọng.

Chân dung một Matagi.

Matagi Là Ai?

Thuở xưa, săn bắn là một sinh kế tại các vùng núi trên khắp nước Nhật, ở bất kỳ ngôi làng nào cũng có những người đàn ông làm nghề đi săn. Tuy nhiên chỉ những thợ săn hoạt động ở vùng núi từ phía bắc tỉnh Nagano đến vùng Tohoku mới có thể được gọi là Matagi, và từ này cũng không ám chỉ mọi thợ săn ở những vùng này.

Matagi là những thợ săn truyền thống của Nhật Bản.
Matagi là những thợ săn truyền thống của Nhật Bản.
Ảnh: rekishijin.com

Điểm phân biệt đầu tiên đó là cộng đồng thợ săn Matagi sở hữu niềm tin tâm linh sâu sắc, họ tôn thờ nữ thần núi và tuân thủ những luật lệ riêng khi săn bắn. Họ tin rằng những con vật săn được là món quà do thần linh ban tặng cho mình - điểm này tương đồng với niềm tin của người Ainu, một dân tộc thiểu số phân bố chủ yếu ở Hokkaido, miền Bắc Nhật Bản.

Matagi thực hiện những chuyến đi săn vào mùa đông.
Matagi thực hiện những chuyến đi săn vào mùa đông.
Ảnh: shinjo-archive.jp

Thứ hai, Matagi không đi săn riêng lẻ mà luôn phối hợp theo nhóm, và trong mỗi cuộc săn, từng người sẽ đảm nhiệm các vai trò riêng theo sự chỉ huy của người đứng đầu.

Mùa săn của Matagi bắt đầu vào mùa đông, kéo dài đến khoảng tháng 4 hoặc giữa tháng 5, trong mùa xuân. Khoảng thời gian còn lại trong năm, nhiều người trong số họ kiếm sống bằng các nghề khác như làm nông hay câu cá.

Trong quá khứ, các Matagi phơi khô mật gấu và bào chế các loại thuốc từ những con gấu mà họ săn được. Cùng với bộ lông, họ đem những sản phẩm này đến các ngôi làng để bán. Đôi khi có người chọn ở lại làng và lập gia đình, tiếp tục truyền bá văn hóa săn bắn cổ xưa này ở quê hương mới.

Ngày nay, khu vực Ani ở tỉnh Akita được biết đến là chốn linh thiêng của Matagi, và những thợ săn ở đây được gọi là “Ani Matagi”.

Matagi dựng những túp lều tạm trên núi làm căn cứ để săn bắn. Vách làm bằng tre, mái được lợp bằng vỏ cây bồ đề.
Matagi dựng những túp lều tạm trên núi làm căn cứ để săn bắn. Vách làm bằng tre, mái được lợp bằng vỏ cây bồ đề. Ảnh: MAFF

Truyền thuyết về sự ra đời của Matagi

Matagi được cho là xuất hiện từ thời Heian (794-1185) hoặc thời Kamakura (1185-1333). Dù không xác định được nguồn gốc chính xác nhưng có truyền thuyết kể rằng, Matagi đầu tiên là một thợ săn có tên Banzaburo.

Dưới thời trị vì của Thiên hoàng Seiwa (850-881) đã xảy ra một trận chiến giữa thần Akagi Myojin ở tỉnh Ueno và thần Nikko Gongen ở tỉnh Shimotsuke. Trước sức mạnh áp đảo của Akagi Myojin trong hình hài của một con rắn khổng lồ, Nikko Gongen đã cải trang thành con nai trắng và xuống núi để tìm sự giúp đỡ từ thợ săn Banji Banzaburo - vốn là một cung thủ lão luyện.

Banzaburo đã thành công bắn xuyên cả hai mắt của Akagi Myojin, buộc vị thần này phải rút lui. Sau đó, Nikko Gongen đã ban cho ông giấy phép săn thú hoang ở bất kỳ ngọn núi nào, và đây được cho là sự khởi đầu của Matagi.

Niềm tin của Matagi

Tôn thờ thần núi

Tục thờ thần núi của Matagi là một kiểu thờ thiên nhiên được phát triển từ nỗi kính sợ, cảm giác choáng ngợp của con người trước sự hùng vĩ, khắc nghiệt của rừng núi và tự nhiên.

Một con cá đá (okoze) khô được trưng bày. Đây là lễ vật tiêu chuẩn để dâng lên thần núi.
Một con cá đá (okoze) khô được trưng bày. Đây là lễ vật tiêu chuẩn để dâng lên thần núi. Ảnh: thelocality.net

Vị thần mà Matagi tôn thờ là một nữ thần có ngoại hình xấu xí. Vì vậy, trước khi lên núi đi săn, Matagi sẽ dâng lễ vật là những con cá đá có vẻ ngoài thô kệch, xấu xí hơn bà để khiến nữ thần hài lòng. Bà cũng được cho là hay đố kỵ, ghen tuông nên phụ nữ tuyệt đối không được phép lên núi, hay các Matagi cũng không được lên núi sau khi chạm vào phụ nữ.

Tuy nhiên, giống như các tôn giáo khác, quan điểm của Matagi về vị thần cũng khác nhau tùy theo từng nơi. Có vùng thì lại cho rằng thần núi là một phụ nữ có ngoại hình xinh đẹp.

Matagi sẽ cầu nguyện với nữ thần trước khi đi săn.
Matagi sẽ cầu nguyện với nữ thần trước khi đi săn.
Ảnh: navitime.jp

Ngôn ngữ núi

Các Matagi có kho từ ngữ dành riêng khi đi săn, được sử dụng sau khi bước vào địa phận ngọn núi. Đây được cho là một cách để tránh làm "ô uế" môi trường núi thiêng và thể hiện sự tôn kính với thần. Trong số các từ này cũng bao gồm một số từ có nguồn gốc Ainu.

Gấu
  • Koshimake: Tỳ linh Nhật Bản
  • Itazu: Gấu
  • Wakka: Nước
  • Kiyokawa: Rượu sake
  • Hera: Người phụ nữ
  • Wanpa: Tuyết lở
  • Sanpe: Tim

Cành Morobi

Cành Morobi.
Ảnh: oriyamake.com

Một loại cây có tên Morobi hầu như luôn được đặt trên bàn thờ ở ngôi làng của Matagi. Mùi hương của Morobi được cho là có tác dụng thanh tẩy và bảo vệ con người khỏi linh hồn ma quỷ. Trước khi đi săn, họ đốt Morobi để thanh tẩy cơ thể và ngôi làng.

Cuộn giấy

Cuộn giấy được truyền lại trong gia đình shikari qua nhiều thế hệ.
Cuộn giấy được truyền lại trong gia đình shikari qua nhiều thế hệ. Ảnh: Bảo tàng Matagi

Trong ngôi nhà của người đứng đầu nhóm Matagi (shikari) có một cuộn giấy gọi là “Yamadachi Konpon no Maki” được truyền qua nhiều thế hệ, đặt trên bàn thờ gia đình. Đó chính là bản sao viết tay của giấy phép săn bắn mà nữ thần Nikko Gongen trao cho thợ săn Banzaburo trong truyền thuyết.

Người ta nói rằng trong quá khứ, cuộn giấy này được Matagi mang theo trong những cuộc đi săn.

Đối tượng săn bắn

Kể từ thời Minh Trị (1868-1912), đã có những cải cách pháp lý khiến gấu đen, thỏ và gà lôi trở thành mục tiêu săn bắn chính của Matagi. Họ từng săn khỉ và tỳ linh Nhật Bản, trước khi nó trở thành loài được bảo vệ.

Mật gấu được coi là một loại thuốc chữa bách bệnh từ thời xa xưa và có giá cao đến mức được ví như vàng. Không chỉ túi mật mà cả lông, xương, máu và mỡ của gấu đen đều được bán với giá cao để làm thuốc và bùa hộ mệnh xua đuổi tà ma. Thu nhập do bán những thứ này là “cứu cánh” cho những người sống ở vùng núi xa xôi.

Một Matagi bên cạnh con gấu săn được.
Một Matagi bên cạnh con gấu săn được.
Ảnh: Hiệp hội Matagi Shirakami
Tỳ linh Nhật Bản.
Tỳ linh Nhật Bản. Ảnh: Wikipedia

Một cuộc đi săn truyền thống
của Matagi

Phương pháp săn bắn của Matagi đặc trưng bởi việc phối hợp đi săn theo nhóm. Đầu tiên, họ tập trung dưới chân núi vào sáng sớm, sau đó người thủ lĩnh (được gọi là “shikari” theo ngôn ngữ núi) sẽ phân chia vai trò cho mỗi thành viên.

Seko là người chịu trách nhiệm tạo ra tiếng động lớn để dẫn dụ con thú chạy về hướng ngược lại. Matsuba là cung thủ hoặc xạ thủ, cầm cung hoặc súng chờ sẵn trên sườn núi và bắn con mồi khi nó đến. Ngay cả giữa mùa đông, matsuba vẫn kiên nhẫn chờ đợi hàng giờ cho đến khi con mồi xuất hiện.

Cuộc đi săn bắt đầu khi shikari ở vị trí có thể nhìn thấy được cục diện. Sau khi shikari ra hiệu lệnh, seko sẽ tạo tiếng động để dẫn dụ con thú. Khi con thú nằm trong tầm bắn, matsuba sẽ kết liễu nó và hô lên "Shoubu!". Sau đó cả đội từ trên núi tập trung lại và khiêng gấu về.

Trong sơ đồ này, shikari ở bên trái, phía dưới là seko sẽ tạo tiếng động để con gấu chạy về hướng xạ thủ đã chờ sẵn.
Trong sơ đồ này, shikari ở bên trái, phía dưới là seko sẽ tạo tiếng động để con gấu chạy về hướng xạ thủ đã chờ sẵn. Ảnh: oriyamake.com
Sau khi hạ con gấu, các thợ săn cột dây thừng vào con mồi để kéo về.
Sau khi hạ con gấu, các thợ săn cột dây thừng vào con mồi để kéo về.
Ảnh: turns.jp

Sau đó một nghi lễ gọi là kebokai sẽ được shikari thực hiện trước khi con gấu bị giết thịt. Nó có ý nghĩa là trả lại linh hồn của chú gấu cho thần núi: “Chúng tôi sẽ trả lại linh hồn, vì vậy kính mong thần sẽ ban cho chúng tôi thịt và da một lần nữa”. Nghi lễ này có khá nhiều yếu tố tương tự nghi lễ tiễn đưa gấu “iomante” của người Ainu.

Sau lễ kebokai, con gấu được làm thịt và chia đều cho tất cả mọi người không kể cấp bậc. Nếu 10 người tham gia đi săn thì cả 10 người đều có quyền như nhau đối với con mồi, dù cho ai bắt được nó. Những bộ phận khác (đầu, mật gấu...) được đem ra bán đấu giá, ai muốn thì phải trả tiền để mang đi. Số tiền thu được từ cuộc đấu giá cũng được chia đều cho những người đi săn.

Cuối cùng, mochigushi được dâng lên thần núi. Mochigushi là một loại xiên được vót từ gỗ cây mâm xôi Nhật Bản. Xâu tổng cộng 9 miếng thịt (3 miếng tim, 3 miếng thịt cổ hoặc lưng bên trái và 3 miếng gan) vào 3 xiên rồi cầm và đặt trên đống lửa.

Trang bị của một Matagi.

Ngoài ra còn có warada – một dụng cụ săn thỏ làm bằng rơm, khi ném tạo thành âm thanh như tiếng vỗ cánh của chim ưng, khiến thỏ sợ hãi nhảy xuống hố tuyết và bị Matagi bắt sống.

Nagasa là một con dao được dùng để xử lý nhiều việc, từ tỉa cành cây đến xẻ thịt.

Warada - Nagasa
Ảnh: shinjo-archive.jp, visitakita.com

Văn hóa Matagi ngày nay

Ở thời điểm hiện tại, hiếm có Matagi nào sống nhờ vào việc săn bắn, bán lông và mật gấu nhưng văn hóa Matagi đã trở thành một lối sống nhận được nhiều sự quan tâm vì bản chất bền vững của nó. Văn hóa Matagi đề cao lòng biết ơn và tôn kính tự nhiên, trân trọng, tận dụng hết mức có thể mọi bộ phận của con thú săn được, cũng như không bao giờ lấy nhiều hơn những gì cần thiết.

Ngày nay, du khách muốn tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa Matagi có thể tìm đến các khu vực từ Tohoku đến Hokkaido và Karafuto ở phía bắc, và từ biên giới Joshinetsu đến Tateyama Kurobe và Nara ở phía nam, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là ở Aninekko phía bắc tỉnh Akita, nơi còn được gọi là “làng Ani Matagi”.

Ani Matagi trở nên nổi tiếng vào năm 2004, khi cuốn tiểu thuyết “Kaikou no Mori” (tạm dịch: Khu rừng gặp gỡ) kể về một Matagi sống trong núi sâu của Tatsuya Kumagai đoạt giải thưởng văn học Naoki.

Trước kia, ở Aninekko từng có khoảng một trăm Matagi sống ở chân núi Moriyoshi. Hiện nay số lượng của họ đã giảm mạnh, chỉ còn một số ít thợ săn chủ yếu là người cao tuổi. Nhưng cũng có những người trẻ tuổi như anh Hideyuki Oriyama, người đã rời Tokyo đến đây để trở thành một thợ săn.

Anh Oriyama cũng xây dựng một nhà trọ tên là Mt. Moriyoshi Oriyamake và cung cấp trải nghiệm Matagi cho những người quan tâm, với các hoạt động như khám phá ngọn núi Moriyoshi vào mùa đông, cầu nguyện và thanh tẩy theo nghi lễ của Matagi và tìm kiếm thức ăn từ môi trường hoang dã.

Nhà nghỉ Mt. Moriyoshi Oriyamake.
Nhà nghỉ Mt. Moriyoshi Oriyamake.
Ảnh: stayakita.com
Anh Oriyama Hideyuki hướng dẫn du khách khám phá núi tuyết.
Anh Oriyama Hideyuki hướng dẫn du khách khám phá núi tuyết.
Ảnh: akita-fun.jp

Ngoài ra, du khách cũng không thể bỏ lỡ Bảo tàng Matagi nằm trong Uchito Onsen Matagi no Yu, nơi trưng bày số lượng lớn trang phục, dụng cụ săn bắn của Matagi.

Uchito Onsen Matagi no Yu - nơi có Bảo tàng Matagi.
Uchito Onsen Matagi no Yu - nơi có Bảo tàng Matagi.
Ảnh: forest-akita.jp